quan niệm tình dục của phương tây

Quan hệ tình dục Những hiểu lầm tai hại về tình dục có thể phá hỏng hoàn toàn cuộc yêu tuyệt vời của cả hai và thậm chí có thể gây tổn hại tới sức khỏe. Tình dục là chuyện nhạy cảm nên nhiều người e ngại không dám chia sẻ. Cũng chính vì vậy mà có những quan niệm sai lầm trong "chuyện ấy" tồn tại rất lâu vì không dễ để tìm ra lời giải đáp chính xác. Một dấu hiệu cho thấy việc hành thiền được thực hành đúng là hành giả có cảm giác ngày càng gia tăng của tự do khỏi sự dính mắc vào dục tính, cùng với việc nhận ra rằng toàn bộ mối quan tâm về hấp dẫn tình dục là sản phẩm của các suy tưởng trong tâm về những gì thật ra trên cơ bản có cùng tính chất như các loại ngũ cốc trong thùng chứa. * HPV có rất nhiều týp (hơn 100 týp), tùy theo týp virus mà sẽ gây sang thương ở da, niêm mạc sinh dục. Sùi mào gà chủ yếu lây truyền qua quan hệ tình dục, nếu bộ phận sinh dục có các vết trầy xước hoặc sang thương. Ngoài ra, cũng có thể lây truyền từ mẹ sang con trong quá trình chuyển dạ. Một phần rất thấp lây qua tiếp xúc gia đình. Nga tìm ra cách vượt qua lệnh trừng phạt của phương Tây đối với thị trường kim cương . 24/08/2022 09:27; 0 bình luận; Chỉnh trang phố phường kỷ niệm Ngày giải phóng Thủ đô 10/10 . Xem thêm. CƠ QUAN CỦA CÔNG AN THÀNH PHỐ HÀ NỘI - CHUYÊN TRANG CỦA BÁO CAND 1. Quan niệm về n gười công dân tốt. Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Người công dân tốt là người thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp năm 2013, quy định quyền và nghĩa vụ công dân do Site De Rencontre Gratuit Cote D Ivoire. Một số người lầm tưởng rằng phong trào giải phóng tình dục nở rộ từ sự tự do của thế giới phương Tây và là tư tưởng cần có của một thế giới tự do. Kỳ thực, sự nở rộ của phong trào này có một nguyên nhân hoàn toàn from Getty ImagesSự phát triển một cách rộng rãi của phong trào giải phóng tình dục nói chung bắt nguồn từ các phong trào cực tả trên thế giới. Điển hình nhất, trong cuốn sách “The Origin of the Family, Private Property, and the State” Tạm dịch Nguồn gốc của gia đình, tư hữu và nhà nước, Marx và Engels coi quan hệ hôn nhân là một loại tư hữu. Vì thế, để tiêu diệt tư hữu, tư bản, Marx và Engels đề xuất xóa bỏ gia đình, xóa bỏ hôn nhân, giải phóng tình dục. Để đạt được mục đích đó, Marx và Engels đề xuấtĐiều đó [việc xóa bỏ tư hữu hôn nhân] sẽ xóa bỏ mọi băn khoăn lo lắng về “hậu quả”, thứ đã trở thành nhân tố xã hội quan trọng – cả về đạo đức lẫn kinh tế – cho việc một người phụ nữ có thể trao mình cho người đàn ông mà cô ta yêu. Liệu nỗi lo lắng ấy có đưa tới sự gia tăng các vấn đề quan hệ tình dục không kiểm soát, và có đưa tới việc công chúng ngày càng hạ thấp tiêu chuẩn đối với phẩm giá của phụ nữ không?Nói cách khác, bên cạnh mong muốn xóa bỏ tư hữu về kinh tế, trên danh nghĩa của cái gọi là tình yêu và giải phóng phụ nữ, Marx và Engels đã đề xuất phá bỏ tư hữu hôn nhân, giải phóng tình dục. Sau này, chính các tư tưởng của Marx và Engels đã tạo nền tảng cho sự ra đời của phong trào giải phóng tình dục. Trong đó, Liên Xô là nơi đầu tiên áp dụng ý tưởng này một cách triệt Xô giải phóng tình dụcSau khi giành chính quyền, Liên Xô đã lập tức thực hiện chế độ cộng thê trên quy mô lớn. Đảng cộng sản Liên Xô lúc đó được coi là tiên phong trong phong trào “giải phóng tình dục”, lúc đó mới chỉ nhen nhóm ở phương Tây qua các nhóm cực tả nhỏ. Có thể nói Liên Xô chính là nơi đầu tiên khiến phong trào giải phóng tình dục nở 1990, tạp chí “Tổ quốc” Rodina của Liên Xô, kỳ số 10, từng tiết lộ toàn bộ hiện tượng loạn dục thời kỳ đầu ở Liên Xô. Biểu hiện điển hình của cuộc cách mạng về tình dục chính là cuộc sống đời tư của giới lãnh đạo như Trotsky, Bukharin, Antonov, Kollontai… Bản thân trong tờ tạp chí này có nói rằng, cuộc sống tình dục của giới lãnh đạo vô cùng tùy 1904, Lenin từng viết“Dâm dục có thể khiến năng lượng tinh thần được giải phóng – không phải vì những giá trị gia đình dối trá – mà để cho chủ nghĩa xã hội tiến đến thắng lợi, phải ném cục máu này đi”.“Великая октябрьская сексуальная революция” Cách mạng Tình dục Tháng 10, Melnichenko, Alexander, 2017Trong ba lần hội nghị đại hội đảng Dân chủ xã hội Nga, Leon Trotsky đã đề xuất rằng sau khi Bolshevik giành thắng lợi sẽ phải đặt định ra nguyên tắc trong quan hệ nam nữ. Lý luận của Marx yêu cầu phải tiêu hủy gia đình, quá độ đến thời kỳ tự do về tình 1911, Trotsky viết thư cho Lenin rằng “Không còn nghi ngờ gì nữa, sự áp bức về tình dục là thủ đoạn chủ yếu của những kẻ nô dịch. Một khi còn áp bức thì không thể có sự tự do thực sự. Gia đình giống như thành phần cấu thành của giai cấp tư sản, cần phải khiến nó hoàn toàn mất đi”. Lenin trả lời “Không chỉ là gia đình. Bất cứ sự cấm đoán nào về quan hệ tình dục đều phải bị xóa bỏ… Chúng ta có thể học từ phong trào phụ nữ đòi quyền bầu cử [ở Anh] kể cả việc cấm quan hệ đồng tính cũng phải bỏ”. Cách mạng Tình dục Tháng 10, tlđdSau khi Bolshevik giành chính quyền, ngày 19/12/1917, trong tuyên bố “Điều lệnh của Lenin” đã bao gồm những nội dung về “xóa bỏ hôn nhân”, “xóa bỏ tội đồng tính luyến ái”…“Đừng là con buôn của giai cấp tư sản”Lúc đó ở Nga Xô Viết có một khẩu hiệu vô cùng điên cuồng “Đả đảo liêm sỉ!” Down with shame!. Để nhanh chóng đào tạo nên “những con người mới”, Nga Xô Viết đã cổ động người dân xuống đường trần truồng dạo chơi. Họ dạo chơi khắp nơi trần truồng, điên cuồng kêu gào “Đả đảo liêm sỉ!”, “Liêm sỉ là giai cấp tư sản trong quá khứ của người dân Xô-viết”. Cách mạng Tình dục Tháng 10, tlđdNgày 19/12/1918, ngày kỷ niệm ban hành luật “xóa bỏ hôn nhân” ở Petrograd, các nhóm người đồng tính nữ tổ chức hoạt động chúc mừng. Trotsky trong cuốn hồi ký của mình đã chứng thực sự việc này. Ông nói, tin tức về hoạt động diễu hành của những người đồng tính nữ khiến Lenin rất vui mừng. Lenin còn khuyến khích nhiều người trần truồng xuống đường hơn “Hãy tiếp tục nỗ lực, các đồng chí.”Năm 1923, cuốn tiểu thuyết “Tình yêu giữa ba thế hệ” của Nga Xô Viết đã khiến khái niệm “chủ nghĩa cốc nước” được lan truyền nhanh chóng. Tác giả cuốn tiểu thuyết là một Ủy viên nhân dân phúc lợi xã hội tức bộ trưởng Alexandra Kollontai. Bà ta là một chiến sĩ của phong trào “giải phóng phụ nữ”. “Chủ nghĩa cốc nước” mà cuốn tiểu thuyết ca ngợi, thực chất là một từ thay thế cho “giải phóng tình dục” trong xã hội Nga Xô Viết, nhu cầu thỏa mãn tình dục cũng đơn giản và bình thường giống như uống một cốc nước, bất kể là với ai. “Chủ nghĩa cốc nước” đã được truyền bá rộng rãi trong công nhân, đặc biệt là trong giới thanh niên, học cáo cho một vở diễn vào những năm 1920 tại Liên Xô. Trong đó viết “Bất cứ một người đàn ông cộng sản nào cũng có thể và phải thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình.”Ở Nga Xô Viết lúc đó, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân xuất hiện rộng rãi, quan hệ tình dục trong giới trẻ đã trở nên công khai. “Hiện nay quan niệm đạo đức của giới trẻ chúng ta nên là như vậy”, Smidovichsky viết trên báo Pravda vào ngày 21/3/1925, “Mỗi đoàn viên thanh niên, bao gồm cả trẻ vị thành niên và học sinh là công nhân, nông dân trong các trường học bổ túc Rabfak đều có quyền được thỏa mãn về tình dục. Quan niệm này nên trở thành một tín điều của chúng ta. Tiết chế dục vọng là quan niệm của giai cấp tư sản. Nếu có chàng trai nào đó để ý đến một cô gái, dù cô ta là sinh viên, nữ công nhân hoặc nữ sinh trong các trường bổ túc, thì cô ấy nên đáp ứng mọi đòi hỏi của chàng trai đã lựa chọn mình, nếu không cô ấy chính là con buôn’ của giai cấp tư sản…” Trích từ bài viết Эрос революции “Комсомолка, не будь мещанкой – помоги мужчине снять напряжение!” – Tạm dịch Cách mạng tình dục Đừng là con buôn, hãy giúp đàn ông xả stress!Phong trào “gia đình Thụy Điển”Trong thời kỳ giải phóng tình dục ở Nga Xô Viết và sau đó là Liên Xô còn xuất hiện hiện tượng “gia đình Thụy Điển”, đây là hiện tượng rất nhiều người không phân biệt nam nữ cùng chung sống với nhau, thông thường do 10-12 người tình nguyện tập hợp thành một nhóm. Mặc dù gọi là “gia đình Thụy Điển” nhưng không có liên quan gì với người Thụy Điển, hoàn toàn là người Liên Xô. Hiện tượng này đã tạo điều kiện cho việc loạn giao và tình dục bừa bãi, làm đảo lộn luân lý, tan nát gia đình, khiến đồng tính luyến ái và các bệnh về tình dục gia nữ Liên Xô diễu hành trong một sự kiện thể thao tại Quảng trường Đỏ, Moscow 1932. Họ đều không mặc đồ lót. Ảnh Ivan Shagin, 1904-1982, Fine Arts Museums of San FranciscoPhong trào “gia đình Thụy Điển” nở rộ khắp Liên Xô. Hiện tượng này được coi là “quốc hữu hóa”, “giải phóng phụ nữ”. Sau khi chiếm đóng Yekaterinburg, vào tháng 3 năm 1918, Nga Xô Viết đã công bố một pháp lệnh, quy định phụ nữ từ 16 đến 25 tuổi đều phải “xã hội hóa”. Pháp lệnh này do Ủy viên bộ nội vụ đề xướng và thi hành mệnh lệnh. Ngay lúc đó có 10 cô gái đã bị “xã hội hóa”. “The Revolution of the Sexes” – Tạm dịch Cách mạng tình dục, còn có tên “The Secret Mission of Clara Zetkin” – Tạm dịch Nhiệm vụ bí mật của Clara Zetkin, Chương 7, Olga Greig.Xã hội Nga Xô Viết, và sau đó là Liên Xô đã xuất hiện các phong trào ly hôn trên quy mô lớn. Trong cuốn sách “Takedown From Communists to Progressives, How the Left Has Sabotaged Family and Marriage” Tạm dịch Hé lộ Từ cộng sản đến chủ nghĩa tiến bộ, phái tả đã phá hoại gia đình và hôn nhân của chúng ta như thế nào, Paul Kengor đã viết “Tỷ lệ ly hôn tăng nhanh như tên lửa, thật hiếm thấy trong lịch sử nhân loại. Trong thời gian ngắn ngủi, gần như mọi người dân ở Moscow đều ly hôn”. Năm 1926, tờ The Atlantic của Mỹ đã đăng một bài báo có tiêu đề “Người Liên Xô phấn đấu tiêu hủy hôn nhân”, tiết lộ về tình hình đáng kinh ngạc ở Liên Xô lúc đó.*Đến cuối những năm 1920, đầu những năm 1930, một điều bất ngờ xảy ra Liên Xô đột nhiên thắt chặt chính sách về tình dục. Trước khi chết 1924, Lenin từng nói chuyện với nhà hoạt động phụ nữ Clara Zetkin, ông ta đã quay ra lên án mạnh mẽ “chủ nghĩa cốc nước”, coi nó “phản chủ nghĩa Marx”, “phản xã hội” Nhiệm vụ bí mật của Clara Zetkin, tldd. Thực chất nguyên nhân là vì giải phóng tình dục đã gây ra những hậu quả to lớn trẻ sơ sinh không ai quan tâm nuôi dưỡng, việc giải thể gia đình dẫn đến sự tan rã của xã hội, bệnh tật tình dục lan tràn, năng suất lao động giảm, Giải phóng tình dục đã gây ra hậu quả nặng nề cho kinh tế và xã hội của Liên chủ đề giải phóng tình dục này, trong những tuyên bố của Marx và Engels thường xuyên xuất hiện những từ ngữ như “tự do”, “giải phóng”, “yêu thương” nhưng dường như kết quả thì trái chất, nguồn gốc của tư tưởng giải phóng tình dục và giải phóng phụ nữ này còn sâu xa hơn, nó đã manh nha vào thời Công xã Paris, bắt nguồn từ Robert Owen – Người đề xướng việc cộng thê dùng chung vợ; và Charles Fourier – Cha đẻ của thuật ngữ “féminisme” thuật ngữ mà sau này được sử dụng rộng rãi để mô tả phong trào đòi quyền lợi cho phụ nữ. Những người này đều góp phần hình thành nên các luồng tư tưởng cực tả tiếp sau đó mà điển hình chính là sự nở rộ của phong trào giải phóng tình dục sau số người lầm tưởng rằng phong trào giải phóng tình dục nở rộ từ sự tự do của thế giới phương Tây. Nhưng khi nhìn vào lịch sử, những thứ xuất hiện đằng sau các danh từ mỹ miều như “giải phóng” hay “bình đẳng” thường là sự giảo hoạt và dối trá được dựng nên từ các phong trào cực tả. Đó không phải là Tây học, cũng không phải là tư tưởng cần có của một thế giới tự lại có chỉnh sửa từ loạt bài của The Epoch Times Nguyễn Vĩnh tổng hợpXem thêm Đời sốngTổ ấm Thứ bảy, 14/2/2004, 1130 GMT+7 Phương Đông cổ đại lấy lý thuyết âm dương và ngũ hành làm cơ sở để giải thích mọi hiện tượng trong đời sống tình dục. Theo đó, nam là dương, nữ là âm. Nếu âm, dương không cân bằng, không hòa hợp thì con người sẽ phát sinh bệnh tật và tổn thọ. Tình ý phù hợp là một trong những điều kiện để thành công trong chuyện vợ triết học cổ đại phương Đông, âm dương là những thế đối nghịch nhau của sự vật như trời - đất, mặt trời - mặt trăng, nam - nữ, trắng - đen, ngày - đêm... Theo Kinh dịch, âm dương có giao cảm với nhau thì sự sống mới tồn tại và phát triển. Âm dương luôn phải tương ứng, tương sinh, đó là nguyên lý bao quát trong cả đời sống tình dục. Sách Tố Nữ Kinh giải thích sự suy nhược cơ thể dựa trên thuyết Âm dương ngũ hành Trong trời đất có 5 yếu tố chính là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ngũ hành; chúng tương khắc và tuần hoàn. Nếu thủy tính nữ nhân quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính đàn ông. Cát Hồng - nhà khoa học thời Tấn - cũng cho rằng "Âm và dương không giao cảm với nhau sẽ làm tổn thương sinh mệnh". Người phương Đông xưa coi trọng tình dục và các phương pháp tăng cường sức mạnh tình dục bổ thận và cường dương. Sách Mạnh Tử viết "Ăn uống, sắc dục là bản tính". Sách Lễ Ký viết "Ăn uống, quan hệ nam nữ là nhu cầu lớn trong bản năng sinh tồn". Tình dục không chỉ là nhu cầu của tuổi thanh niên mà ngay cả người có tuổi cũng vẫn cần. Người Trung Quốc vốn nổi tiếng với các thang thuốc cường tinh tráng thể giúp kéo dài tuổi thọ và đời sống tình dục. Theo quan niệm phương Đông, tình dục phải hòa nhịp với thiên nhiên. Sách viết về tình dục của Trung Hoa cổ xưa coi chuyện nam nữ là một bộ phận vũ trụ. Lão Tử viết "Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người phải luận theo". Cách thức giao hợp cũng phải theo những thế đối nghịch nhau của sự vật như trời dương trùm lên đất âm, trời đất hòa quyện liền nhau thành nhất thể nên mãi mãi trường tồn... Thời điểm thụ thai lý tưởng được coi là giờ Tý 11 giờ khuya đến 1 giờ sáng hay giờ Sửu từ 1 đến 3 giờ sáng. Trong khoảng thời gian này, can mạch mạch liên quan tới gan hoạt động, trong đó có mạch nối với cơ quan sinh dục, khiến cho sự giao hợp được thoải mái và có thể kéo dài. Can mạch hoạt động lên đến tuyệt đỉnh vào lúc 2 giờ sáng, vì vậy nên xuất tinh vào giờ này. Theo sách Tố Nữ Kinh, không được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch, giữa tháng và cuối tháng. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu của Đông y đã phê phán những quan niệm quá khắt khe đó, nhưng vẫn giữ lời khuyên tránh giao hợp vào những ngày giông bão, mưa to gió lớn... Họ cho rằng điều kiện môi trường đột biến thì trạng thái cơ thể cũng phải biến động để thích nghi, do đó không nên làm cho tinh khí tiết xuất. Các nghiên cứu về thời sinh học ngày nay cho thấy những lời khuyên của người xưa có nhiều điều hợp lý. Hoạt động tình dục hợp lý, đúng cách cũng là một phương pháp dưỡng sinh. Cát Hồng viết "Dù cho có uống trăm ngàn thứ thuốc mà không biết thuật phòng trung các phương pháp thực hành tình dục thì cũng chỉ là vô ích". Thuật phòng trung thực chất là các phương pháp điều hòa hơi thở, những tư thế trong quan hệ tình dục để đem lại khoái cảm, không làm hao tổn sức khỏe mà còn có thể chữa được bệnh. Sách Ngọc phòng thiết yếu quyết cũng viết "Phàm ở đời, thân thể người ta thường bị suy mòn do không nắm được phép tắc giao tiếp giữa âm và dương nữ và nam. Người biết đạo âm dương thì có được sự vui vẻ, người không biết thì thân thể và sinh mệnh sẽ bị hủy hoại...". Y lý phương Đông khuyên nên thực hành tình dục dưỡng sinh ngay từ khi còn trẻ vì những người trẻ dễ coi thường sức khỏe và làm phương hại đến hạnh phúc gia đình. Mọi người cần biết nên làm gì và tránh những gì. Điều này cũng phù hợp với kết quả các nghiên cứu khoa học gần đây thực hành tình dục an toàn và lành mạnh sẽ đem lại sức khỏe. Khác với quan niệm tình dục hiện đại, các "nhà tình dục học" phương Đông phân biệt rõ những tư thế tình dục để lấy khoái cảm 30 tư thế và những tư thế nhằm mục đích dưỡng sinh, chữa bệnh 24 tư thế gồm cửu pháp, bát ích, thất tổn. Cửu pháp 9 thế chủ yếu dựa trên sự kiềm chế xuất tinh, nhờ đó có thể tiêu trừ những chứng bệnh sinh ra do buồn giận, ghen ghét thế thứ 4, giữ tinh lực giúp cho thân thể cường tráng thế thứ 5, tiêu giải được trăm thứ bệnh thế thứ 6, 7, tăng tuổi thọ và sức khỏe thế thứ 9. Có người cho rằng những mô tả về cửu pháp đã cung cấp nhiều gợi ý cho 2 nhà nghiên cứu tình dục học nổi tiếng người Mỹ là Master và Johnsons khi xây dựng liệu pháp tình dục chữa xuất tinh sớm những năm 1940-1950. Những chỉ dẫn về thực hành tình dục của người xưa còn hướng đến mục đích sinh con khoẻ mạnh. Người xưa chưa biết đến tinh trùng và noãn mà chỉ suy luận rằng sinh con là nhờ vào tinh cha và huyết mẹ; hai yếu tố âm dương ấy hòa với nhau tạo nên bào thai. Nếu tinh và huyết cường thịnh thì thai nhi sẽ khỏe mạnh. Vì vậy, đạo sinh con phải lấy dưỡng tinh và dưỡng huyết làm trọng. Hoạt động tình dục điều hòa thực chất cũng là cách bảo vệ tinh cha, huyết mẹ. Ngoài ra, muốn có con cái khỏe mạnh, trai gái cần phải kết hôn ở độ tuổi thích hợp. BS Đào Xuân Dũng, Sức Khoẻ & Đời Sống Luận văn Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa năm hội ngày càng hiện đại, thanh thiếu niên TTN Việt Nam càng hiểu nhiều hơn về lối sống của người phương Tây vốn có nhìn nhận việc quan hệ tình dục QHTD trước hôn nhân khá cởi mở [26]. Đối với các hành vi sức khỏe ảnh hưởng đến TTN và sinh viên thì QHTD trước hôn nhân ngày càng trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. MÃ TÀI LIỆU Giá Liên Hệ So với các quốc gia trên thế giới, Việt nam là quốc gia có tỉ lệ quan hệ tình dục QHTD trước hôn nhân thấp hơn. Nghiên cứu năm 2004 của các nhà nghiên cứu xã hội học tại Thượng Hải, Đài Loan và các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam so sánh về hành vi tình dục trước hôn nhân của thanh viên ở 3 thành phố Thượng Hải, Hà Nội và Đài Loan. Kết quả tỉ lệ QHTD trước hôn nhân của thanh niên ở Hà Nội là 8%, trong khi tỉ lệ này ở Thượng Hải là 16% và ở Đài Loan lên đến 34% [22]. Tỉ lệ này ở TTN tại các nước phát triển như Mỹ lên đến 75% [19]. Còn tại Châu Á, tỷ lệ TTN độ tuổi từ 12-19 đã từng có QHTD ở Malaysia là 5,4% [20]. Nhìn vào những con số trên có thể thấy sự khác biệt lớn giữa tỉ lệ QHTD trước hôn nhân của TTN ở các nước phương Tây và phương Đông. Tại Việt Nam, một thực trạng đáng báo động hiện nay là TTN có QHTD trước hôn nhân đang trở nên phổ biến và có xu hướng gia tăng. Theo kết quả điều tra Quốc gia về vị thành niên VTN và TTN Việt Nam lần thứ 2 SAVY2 được công bố năm 2010 cho thấy 9,5% thanh niên Việt Nam đã từng có QHTD trước hôn nhân. Trong khi đó tỷ lệ này ở SAVY 1 2003 là 7,5%. Tuổi trung bình QHTD lần đầu của thanh niên Việt Nam cũng có xu hướng giảm từ 19,6 tuổi ở SAVY1 xuống còn 18,1 ở SAVY2 [17][48]. QHTDtrước hôn nhân không dùng các biện pháp bảo vệ dẫn đến nhiêu hệ lụy đáng báo động như mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai và lây nhiễm HIV/AIDS… Theo thống kê, Việt Nam là nước có mặt trong 5 quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới và đứng đầu Châu Á với 1,2-1,6 triệu ca mỗi năm [1]. Sinh viên là một bộ phận của TTN, bắt đầu làm quen với môi trường sống xa nhà. Đây là bước ngoặt cho sự thay đổi theo hướng độc lập hơn, là cơ hội để thanh niên có thể giao lưu, kết bạn hoặc trải nghiệm cuộc sống. Sự thay đổi này ít nhiều cũng ảnh hưởng đến những chuẩn mực đạo đức và quan niệm sống của giới trẻ ngày nay dẫn đến việc sinh viên có QHTD ngày càng sớm, tỷ lệ nạo phá thai ngày một tăng [29]. Với thực trạng giới trẻ ngày nay như vậy, thì thực trạng hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên trường Cao Đẳng Y tế Thanh Hóa ra sao? Điều này chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố nào? Chưa có nghiên cứu nào tiến hành điều tra về vấn đề này tại trường, vì vậy nghiên cứu “ Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa năm 2015” được tiến hành góp phần giải đáp các vấn đề sức khỏe trên. Từ đó góp phần giúp cải thiện, nâng cao sức khỏe của sinh viên trong trường. Nghiên cứu thực hiện với các mục tiêu cụ thể sau . Mô tả một so đặc điêm đời song cá nhân, kiên thức, thái độ và các moi quan hệ với gia đình, bạn bè liên quan đên hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên trường Cao đẳng Y tê Thanh Hóa năm 2015. 2. Mô tả thực trạng hành vi QHTD trước hôn nhân và một số yêu tố liên quan của sinh viên tại trường Cao đẳng Y tê Thanh Hóa năm 2015. Tài Liệu Tham Khảo Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa năm 2015 1. Quỹ Dân số Liên hợp quốc UNFPA. 2014, Thực trạng chung về mang thai tuổi vị thành niên và các chương trình/chính sách chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên Chi cục Dân Số-Kế Hoạch Hóa gia đình Hải Phòng. 2. Bogale A, Seme A. 2014, Premarital sexual practices and its predictors among in-school youths of Shendi town, west Gojjam zone, North Western Ethiopia. ReprodHealth, 11, 49. 3. Dave and et al. 2013, A Study on High-risk Premarital Sexual Behavior of College Going Male Students in Jamnagar City of Gujarat, India. Int JHigh Risk Behav Addict, 23. 4. Marison R and et al. 2013, Sexual Health Knowledge, attitudes and behaviors of Filipino college students. Asian life sciences, 231. 5. Saulog Lacson R and et al. 1997, Correlates of sexual abstinence abstinence among urban university students in the Philippines. International Family Planning Perspectives, 23, 168-172. 6. Way Blanc 1998, Sexual behavior and contraceptive knowledge and use among adolescents in developing countries. Studies in Family Planning, 29 2, 106-116. 7. Đặng Thị Phương Lan, Bùi Thị Xuân Mai và cộng sự. 2013, Giáo trình chất gây nghiện và xã hội, Đại học Lao động Xã hội 8. Loi Ghuman S, Huy et al. 2006, Continuity and change in premarital sex in Vietnam. Pubmed, 32 4, 166-174. 9. Yamazhan T, Gokengin D, Ozkaya D and et al. 2003, Sexual knowledge, attitudes, and risk behaviors of students in Turkey. PubMed, 73. 10. Phạm Hồng Hà. 2002, Thực trạng sử dụng rượu bia, hút thuốc lá và quan hệ tình dục của sinh viên Đại học Y Hà Nội năm 2012, Luận văn cử nhân Y tê Công Cộng, Đại học Y Hà Nội. 11. Trần Thị Mỹ Hạnh. 2008, Mối liên quan của việc xem phim ảnh đồi trụy tới quan niệm và hành vi tình dục của thanh thiếu niên Gia Lâm Hà Nội, 2008, Luận văn Thạc sĩ Y tế Công Cộng, Đại học Y Tế^ Công Cộng. 12. Tạ Thị Hằng. 2011, Nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân, luận văn tốt nghiệp Cao học, Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội 13. Trần Thị Hồng. 2008, Khác biệt về giới trong hành vi tinh dục trước hôn nhân của vị thành niên và thanh niên Viện Nghiên cứu gia đình và giới 14. Trần Thị Hồng. 2013, Hành vi nguy cơ về sức khoẻ của thanh thiếu niên Việt Nam, thực trạng và các yếu tố tác động, Học viện chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 15. Trần Văn Hường. 2012, Thực trạng, quan điểm và các yếu tố liên quan đến quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên trường đại học Sao Đỏ tỉnh Hải Dương năm 2012 thạc sĩ Luận văn Thạc sĩ Y tế Công Cộng, ĐH Y tế công cộng. 16. Ahmed Meekers D. 2000, Ontemporary patterns of adolescent sexuality in urban Botswana. Journal of Biosocial Science, 32. 17. Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê. 2003, Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh thiếu niên Việt Nam lần 1, Tổng cục Thống kê. 18. Melhado L. 2009, In Africa, Adolescents Who Have Premarital Sex Show Higher Dropout Rates. International ppectives on Sexual and Reproductive Health, 35. 19. Finer 2007, Trends in premarital sex in the United States, 1954-2003. Pubmed, 1221. 20. Chen Lee Lee et al. 2006, Premarital sexual intercourse among adolescents in Malaysia a cross-sectional Malaysian school survey. Pubmed, 476. 21. Blum ^ Linh 2009, Sử dụng biến tổ hợp các ^ thang do yếu tố nguy cơ, yếu tố bảo vệkết hợp với kĩ thuật phân tích dọc về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân ở Gia Lâm – Hà Nội. Tạp chí Y Tế công cộng. 22. Vũ Mạnh Lợi. Tình dục trước hôn nhân Nghiên cứu so sánh thanh niên Hà Nội, Thượng Hải và Đài Loan – Trung Quốc. 23. Söderbäck M. 2012, Sexual behavior among chinese male female medical university student in Chongqing, China. Science of Public Health, 23 1, 149-174. 24. Đặng Thị Thu Mai. 2013, Nghiên cứu thái độ tình dục của sinh viên có tiếp xúc với nội dung kiêu dâm trên Internet, Luận văn Thạc sĩ Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn. 25. Nguyễn Văn Nghị. 2011, Nghiên cứu quan niệm, kiến thức, hành vi tình dục và sức khỏe sinh sản ở vị thành niên huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương 2006-2009, Luận văn Thạc sĩ Y Tế Công Cộng, Đại học Y Tế Công Cộng 26. Lê Nguyễn Minh Tấn Ngô Văn Lệ. 2008, Quan hệ tình dục trước hôn nhân một góc nhìn, Khoa Nhân Học, ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc GIa TPHCM, accessed, from 27. Lê Ngọc Hân, Nguyễn Linh Khiếu và cộng sự. 2003, Gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 28. Lê Cự Linh, Nguyễn Thanh Nga và cộng sự. 2009, Thực trạng sức khỏe thanh thiếu niên huyện Chí Linh, Hải Dương Các kết quả sơ bộ từ dự án nghiên cứu dọc tại Chililab. Hội Y tế Công Cộng Việt Nam. 29. Trần Mai Hương, Nguyễn Thị Kim Hoa và cộng sự. 2007, Quan điểm của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, 173. 30. Trần Mai Hương Nguyễn Thị Kim Thoa, Mai Thanh Tú và cộng sự. 2007, Quan điểm của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. 31. Faromoju B, Olaleye A, Ladipo O, et al. 2006, Sexual behavior and experience of sexual coercion among secondary school students in three states in North Eastern Nigeria. BMC Public Health. 32. Laguna 2001, On Their Own Effect of Home- and School-leaving on Filipino Adolescents' Sexual Initiation. East-West Center, 108 19. 33. Xenos P, Podhisita C and Varangrat A. 2000, The risk of premarital sex among Thai youth individual and family influences. East Wesst center working papers. 34. Lã Ngọc Quang, Phạm Thi Hương Trà Linh. 2014, Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, hành vi quan hệ tình dục của sinh viên trường Cao Đẳng Y Tế Phú Thọ, năm 2014. Tạp chí Y Tế Công Cộng, 34. 35. Mai Xuân Phương. 2014, Làm mẹ khi chưa trưởng thành Thách thức mang thai ở tuổi vị thành niên. 36. Nguyễn Thúy Quỳnh. 2001, Mô tả hành vi tình dục và kiến thức phòng tránh thai của nam nữ sinh viên chưa lập gia đình tuổi 17-24 tại một trường Đại học Hà Nội, Đại học Y Tế Công Cộng. 37. Sujay R. 2009, Premarital Sexual Behaviour among Unmarried College Students of Gujarat India. Health and Population Innovation Fellowship Programme, 9 38. BinSaeed A, Raheel H, et al. 2013, Sexual practices of young educated men implications for further research and health education in Kingdom of Saudi Arabia KSA. JPublic Health Oxf, 35 1, 21-6. 39. Bandason T, Rusakaniko S. 2010, Prevalence and associated factors of smoking among secondary school students in Harare Zimbabwe. Tob Induc Dis, 8, 12. 40. Scornet C, et al. 2012, "Giới, tình dục và sinh sản ở Việt Nam",116-130. 41. Wulf D, Singh S, Samara R, et al. 2000, Gender Differences in the Timing of First Intercourse Data from 14 Countries. International Family Planning Perspectives, 26. 42. Wulf D, Singh S, Samara R, et al. 2000, Gender Differences in the Timing of First Intercourse Data from 14 Countries. International Family Planning Perspectives, 26 1. 43. William Susan et al. 2009, Alcohol, Helping Young Adults to Have Unprotected Sex with Casual Partners Findings from a Daily Diary Study of Alcohol Use and Sexual Behavior. Journal of adolescent health, 44 1, 73-88. 44. Nguyễn Như Ý và cộng sự. 1998, Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin. 45. Lai F. D and Chung C. S. 1997, Assessment of sexual functioning for Chinese college students. Arch Sex Behav, 261, 79-90. 46. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2004, Tài liệu giáo dục giới tính, phòng chống tệ nạn mại dâm, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 47. Bộ Y Tế. 2009, Sức khỏe sinh sản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 48. Bộ Y tế. 2010, Đều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh thiêu niên Việt Nam lần thứ 2SAVY 2. UNICEF Việt Nam. 49. Lâm Thị Bạch Tuyết. 2011, Mô tả thực trạng hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân và các yếu tố liên quan của sinh viê trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu năm 2011, Luận văn Thạc sĩ Y tế Công Cộng, Đại học Y tế Công Cộng. 50. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang. 2009, Yếu tố ảnh hưởng hành vi quan hệ tình dục ở nữ sin cấp 3 tại thành phố Hồ CHí Minh. Hội Y tế Công Cộng Việt Nam. 51. Vũ Thị Linh Trang. 2015, Thực trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân và các yếu tố liên quan của sinh viên Y6 trường Đại học Y Hà Nội năm 2015, Luận văn bác sỹ Y học Dự Phòng, Đại học Y Hà Nội. 52. Trần Hữu Trí. 2010, Nghiên cứu thực trạng kiến thức và hành vi quan hệ tình dục của sinh viên trường Đại học Sư phạm Đồng Tháp, năm 2009 Thạc sĩ, ĐH YTCC. 53. Mutahara U, Rob 2011, Premarital sex among urban adolescents in Bangladesh. Population Council, 20 1. 54. UNICEF. 2005, Hội thảo công bố kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam SAVY2. 55. Li X, Wang B, Stanton B, et al. 2007, Sexual attitudes, pattern of communication, and sexual behavior among unmarried out-of-school youth in China. BMC Public Health 7189. 56. Ye F, Wang X, Wang Y and et al. 2012, Contraceptive knowledge, attitudes and behavior about sexuality among college students in Beijing, China. Chin Med J Engl, 1256. 57. Lu Yu, Xinli Chi, Sam Winter. 2012, Prevalence and correlates of sexual behaviors among university students a study in Hefei, China. BMC Public Health, 12972. 58. Liying MD, Zhang L and et al. 2002, Premarital Sexual Activities Among Students in a University in Beijing, China. Journal of the American sexual transmitted diseases association, 294. ĐẶT VẤN ĐỀ 9 CHƯƠNG I TỔNG QUAN 3 Một số khái niệm cơ bản trong nghiên cứu 3 Thực trạng hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của TTN và sinh viên 4 Thực trạng trên thế giới 4 Thực trạng tại Việt Nam 5 Các yếu tố liên quan đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của TTN và sinh viên 8 Yếu tố cá nhân 8 Yếu tố bạn bè 11 Yếu tố gia đình 12 Yếu tố nhà trường 14 Giới thiệu về trường Cao Đẳng Y tế Thanh Hóa 14 CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16 Đối tượng nghiên cứu 16 Thời gian nghiên cứu 16 Địa điểm nghiên cứu 16 Phương pháp nghiên cứu 16 Thiết kế nghiên cứu 16 Cỡ mẫu 17 Phương pháp chọn mẫu 17 Biến số nghiên cứu chính 17 Phương pháp và công cụ thu thập số liệu 18 Công cụ thu thập số liệu 18 Cách tiến hành thu thập thông tin 18 Xử lí và phân tích số liệu 20 Xử lí và nhập liệu 20 Phân tích số liệu 20 Phương pháp đo lường/ tiêu chuẩn đánh giá 20 Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 22 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 23 Mục tiêu 1 Đặc điểm về cá nhân, hành vi lối sống, các mối quan hệ gia đình, bạn bè có thể liên quan đến hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên 23 Mục tiêu 2 Mô tả hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên và xác định một số yếu tố liên quan 33 Mô tả thực trạng hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên 33 Xác định một số yếu tố liên quan đến hành vi QHTD của sinh viên 39 CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN 43 Bàn luận về một số đặc điểm đời sống sinh viên, kiến thức, thái độ và các mối quan hệ gia đình bạn bè của sinh viên 43 Hành vi lối sống của sinh viên 43 Yếu tố gia đình, bạn bè 45 Kiến thức cúa sinh viên về SKSS và TD 46 Thái độ của sinh viên về SKSS và TD 48 Bàn luận về thực trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên . 50 Tỷ lệ sinh viên đã QHTD trước hôn nhân 50 Tuổi QHTD lần đầu 51 Bạn tình trong các lần QHTD của sinh viên 51 Sử dụng biện pháp tránh thai trong QHTD 53 Tình trạng có thai và nạo phá thai 54 Mối số yếu tố liên quan đến hành vi QHTD của sinh viên 55 KẾT LUẬN 58 Đặc điểm về cá nhân, kiến thức thái độ và các mối quan hệ gia đình, bạn bè của sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa 58 Mô tả thực trạng hành vi QHTD trước hôn nhân của sinh viên và xác định các yếu tố liên quan 59 KHUYẾN NGHỊ 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO 61 PHỤ LỤC 65 Đặc điểm về cá nhân của sinh viên Đặc điểm về hành vi lối sống của sinh viên Đặc điểm yếu tố gia đình, bạn bè của sinh viên Thái độ đồng ý/rất đồng ý các quan điểm về SKSS và TD của sinh viên Đặc điểm có người yêu và hành vi QHTD trước hôn nhân Đặc điểm về sử dụng BPTT trong QHTD trước hôn nhân Đặc điểm hành vi QHTD lần đầu Đặc điểm hành vi QHTD lần gần đây nhất và trong vòng 1 tháng qua Đặc điểm hành vi có thai và nạo phá thai Phân tích đơn và đa biến yếu tố cá nhân hành vi lối sống ảnh hưởng đến QHTD trước hôn nhân Phân tích đơn và đa biến yếu tố kiến thức, thái độ, gia đình, bạn bè ảnh hưởng đến QHTD trước hôn nhân Phân tích đa biến các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi QHTD trước hôn nhân DANH MUC BIỂU ĐỒ Điểm TB kiến thức chung và tỷ lệ % điểm kiến thức đạt > 15 điểm của sinh viên Kiến thức về SKSS và TD của sinh viên Nguồn cung cấp thông tin kiến thức về SKSS và TD Điểm trung bình thái độ và tỷ lệ % thái độ truyền thống > 10 điểm của sinh viên Nói đến sex có thể khiến cho nhiều người giận dữ, lo lắng hoặc lúng túng nhưng không thể phủ nhận, sex là một chủ đề luôn thu hút sự chú ý của mọi người. Dưới đây là một vài quan niệm xưa về những vấn đề xung quanh tình dục và giới Xuất tinh sớmVào thời đại nhà Chu 770 - 222 TCN, những người sùng bái Lão Giáo đều tin rằng, đàn ông và phụ nữ tuân theo nguyên lý âm - dương. Tình yêu gắn liền với sex, nếu trong "chuyện ấy", cả 2 được thỏa mãn, thích thú cao độ, nghĩa là âm dương được giao hòa. Điều này sẽ làm cho con người khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, có một hiện tượng thường gặp ở khá nhiều nam giới đó là tình trạng xuất tinh sớm. Đây là hiện tượng xuất tinh sau khoảng thời gian ngắn, không theo chủ định của nam giới, xuất tinh trước khi "đối tác" đạt cực khoái. Theo quan niệm vào thời nhà Chu, xuất tinh sớm là do sự mất cân bằng giữa dương và âm khí, do thủ dâm gây ra và gây tổn hại sức khỏe. Cũng vào thời này, nếu thủ dâm bị cấm với đàn ông để tránh bị xuất tinh sớm thì phụ nữ lại được cho phép "tự sướng" bao lâu tùy thích nhưng họ không được dùng vật thể lạ, lý do là bởi những vật đó có thể ảnh hưởng đến tử cung. 2. Sex ngẫu hứngNgày nay, việc người phụ nữ lôi kéo đàn ông theo kiểu tình một đêm hay cùng lúc có nhiều người tình không được khuyến khích. Tuy nhiên, thời xưa, sex với người lạ được ủng hộ nếu họ thực sự muốn có này đã được áp dụng tại Lưỡng Hà ở thế kỷ 10 TCN. Hồi đó, nhiều người tin rằng, phụ nữ quan hệ với một người lạ sẽ trở nên... mắn đẻ hơn. Đền thờ Thần Ishtar là nơi tất cả phụ nữ bị bắt buộc phải ghé thăm ít nhất 1 lần trong suốt cuộc đời. Nếu ai hỏi, họ sẽ được giới thiệu như “thánh nữ giữ đền”.Có thể hiểu, đây như một nghi lễ mà trong đó phụ nữ hiến dâng trinh tiết của mình cho một vị thần nào đó, hoặc trong một nghi lễ trang trọng, mọi phụ nữ đều phải lần lượt túc trực ở đền thờ và chấp nhận giao hợp với người đàn ông đầu tiên ném đồng xu bạc vào lòng cô ta. 3. Sex trong hôn nhânTrong suốt thời Trung cổ 400-1500, tình dục là một chủ đề nhạy cảm. Những ai muốn trở thành bề tôi của Chúa luôn tin rằng, tình dục là một sự xấu hổ, là hành động đê hèn cả ngoài và trong giai đoạn hôn nhân. Rất nhiều người xem sex chỉ là một hành động để duy trì nòi giống, điều này đã làm ảnh hưởng đến tâm lý của những cặp vợ chồng, khiến họ bỏ qua cảm xúc thực sự khi giao cũng được xem là “mối nguy hiểm đạo đức” và mối quan hệ tình dục ngoài hôn nhân lập tức được cho là sự gian dâm. Việc tắm rửa ngay sau khi giao hợp cũng là một cách để “rửa sạch cơ thể”.4. Đồng tính luyến ái và ái nam ái nữĐồng tính luyến ái và ái nam ái nữ đã tồn tại từ rất lâu khi con người mới xuất hiện trên Trái đất. Có những thời điểm nó được coi là bình thường nhưng cũng có lúc nó bị cho là trái đạo đức. Dù cho con người nghĩ gì thì nó vẫn tồn tại như một phần quan trọng trong giới tính của loài người. Đồng tính luyến ái và ái nam ái nữ tại Ai Cập cổ đại hay thời Alexander Đại đế 336 - 323 TCN đã trở thành một phần của sự phát triển xã hội, nó liên quan đến giáo dục, tôn giáo, chính trị và nghệ thuật. Bên cạnh đó, mại dâm cũng được chấp nhận và được tách ra thành một lĩnh vực khác, gọi là “mại dâm lịch sự”. Đời sốngTổ ấm Thứ hai, 12/4/2004, 0913 GMT+7 Từ xưa, vấn đề này đã được bộc lộ một cách khá cởi mở. L’epopée de Gilgemes - trường ca của người Babylone cách đây 35 thế kỷ - có những câu miêu tả phụ nữ với quan hệ tình dục. Trên đồ gốm Ai Cập cũng có nhiều biểu tượng về tính dục nữ. Tình dục được đề cập nhiều trong các truyện thần thời gian, tính dục nữ bị nhìn nhận khác đi với những quan niệm hạ thấp phẩm giá phụ nữ Phụ nữ là bề dưới, là người phụ thuộc và tính dục nữ bị đè nén Nữ văn sĩ Pháp George Sand 1804-1876 đã mô tả tính cách người phụ nữ thế kỷ 19 trong chuyện tình dục với chồng qua nhân vật Lelia là sự khiếp sợ, thụ động và chịu đựng. Một phụ nữ đức hạnh thế kỷ 19 phải làm việc, tiết kiệm và quên đi nhu cầu thể xác. Nhu cầu tình dục là đặc quyền của nam giới, nữ giới chỉ có hy sinh, chịu đựng và phải dập tắt mọi nhu cầu khoái cảm. Tại sao phụ nữ bị coi là bề dưới? Ngay từ thế kỷ I, Flavius Josephe đã nói về phụ nữ như sau “Phụ nữ thua kém nam giới về mọi mặt, bởi vậy họ phải nghe theo đàn ông... Chính Chúa đã ban cho người đàn ông sức mạnh”. Về hành vi tình dục cũng vậy, tôn giáo quy định tư thế nằm dưới cho người nữ, vì đó là tư thế duy nhất được nhà thờ cho phép. Thánh Paul “Người nữ phụ thuộc vào người đàn ông nên trong giao phối, người nữ phải nằm dưới”. Thánh Augustine “Mọi tư thế khác với tư thế đó là có tội và trái với tự nhiên”. Giám mục Gilbert de Limerick, thời Trung cổ đã viết “Phụ nữ sẽ kết hôn với người cầu hôn, đó là người cày ruộng và chiến đấu, và phụ nữ phải phục vụ họ”. Theo những quan điểm trên, phụ nữ là tạo vật hạng hai, thua kém đàn ông cả về lý trí và đạo đức. Đề cao vai trò của người mẹ nhằm phủ nhận tính dục nữ Đạo Thiên Chúa giáo đã tìm cách xóa bỏ tính dục nữ bằng cách đồng hóa nó với chức năng làm mẹ chuyện về Đức mẹ Đồng Trinh trong giấc ngủ được thiên thần thông báo là mang thai, sau sinh ra Chúa hài đồng chứ không cần có quan hệ tình dục. Các tôn giáo cũng đặt ra rất nhiều ngày kiêng cữ quan hệ tình dục. Thủ tục cắt bỏ âm vật còn tồn tại đến ngày nay ở một số nước châu Phi và châu Á cũng là một cách để tiêu diệt tính dục nữ. Nhiều tài liệu tâm lý hay văn học trước đây mô tả những thay đổi về thể chất và tâm lý ở nữ giới như một quá trình ít có dấu hiệu của sự khủng hoảng, không bị nhu cầu tình dục thôi thúc mạnh mẽ và cần sự giải tỏa thiên về tình cảm hơn là thể chất. Bằng chứng mà những tài liệu trên đưa ra là nữ giới ít thực hành tự kích dục, ít nói tục hơn, không có nhu cầu giải toả tình dục thúc bách như nam giới. Họ bước vào quan hệ tình dục ít khi do ham muốn mạnh mẽ mà thường do tò mò, nể nang, thương hại hay cả tin, hoặc do muốn chứng tỏ tình yêu, do thiếu ý chí chống lại sự đòi hỏi quá dai dẳng của nam giới. Dù trong trường hợp nào thì ham muốn tình dục cũng không phải là yếu tố quyết định. Phụ nữ là cánh cửa đi gặp ma quỷ Trong thần thoại Hy Lạp, Zeus và Hera khi bàn cãi về sự chia sẻ khoái cảm của nam và nữ, đã hỏi Tiresias một người khi là đàn ông, khi là phụ nữ. Họ đã được trả lời rằng Nếu chia khoái cảm làm 10 phần, thì người nữ có đến 9 và nam giới chỉ có 1, hàm ý là phụ nữ rất nguy hiểm. Gần đây, những quan niệm tích cực về tính dục nữ đã phát triển cách mạng tình dục ở thập kỷ 1960 có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phụ nữ. Trước đây, ngoại tình là đặc quyền của đàn ông nhưng từ cuộc cách mạng này, xã hội phải công nhận rằng sự thỏa mãn tính dục ở phụ nữ cũng là việc cần thiết như các nhu cầu bình thường khác. Nhiều nghiên cứu về tính dục, nhất là các nghiên cứu của Masters và Johnson thập kỷ 1940 đã chứng minh rằng phụ nữ có khoái cảm cũng như hoặc nhiều hơn nam giới; điểm đáp ứng tính dục của nữ là âm vật. Masters và Johnson đã bác bỏ quan điểm vô lý cho rằng phụ nữ có khả năng tính dục thấp, đồng thời nhấn mạnh đến quyền hưởng khoái cảm tình dục của phụ nữ. Ngày nay, chính nhà thờ cũng phải thừa nhận khoái cảm tình dục không phải chỉ nhằm mục đích sinh sản. Những đặc thù sinh học và tâm lý của tính dục nữ Tình dục chỉ là một phần của mối quan hệ nam nữ. Nếu không đáp ứng được những phần khác như văn hóa ứng xử, trình độ hiểu biết, sở thích... thì không đi đến tình yêu. Ngày nay, người ta đã biết đến nhiều khu vực phát sinh khoái cực ở phụ nữ như âm đạo, âm vật và tử cung sự rung động ở tử cung, có người còn nói đến điểm G mặt trên thành âm đạo, 1/3 ngoài. Phụ nữ có thể xuất hiện nhiều khoái cực liên tiếp trong một lần quan hệ tình dục, điểm thường không có ở nam. Những phụ nữ từng có trải nghiệm tình dục thừa nhận rằng hứng khởi tình dục nữ phụ thuộc nhiều vào đối tượng, nghĩa là vào tính cách riêng của mỗi người đàn ông chứ không phải với nam giới nói chung. Chỉ có những người gây được ấn tượng với phụ nữ vì sự hiểu biết hay những phẩm chất khác mới có thể đánh thức ham muốn tình dục ở họ. Một đặc điểm nữa của tình dục nữ tuy ít gặp nhưng là sự thực ham muốn tình dục bùng phát ở những phụ nữ đã mãn kinh hiện tượng hồi xuân. Thông thường, sau khi mãn kinh và buồng trứng ngừng hoạt động, ham muốn tình dục cũng mất đi. Nhưng một số trường hợp lại diễn ra điều trái ngược. Nguyên nhân là sự tiếp tục hoạt động của các tuyến nội tiết trong nhiều năm sau khi buồng trứng ngừng hoạt động. Hiện tượng phụ nữ mãn kinh như được tiếp thêm sức mạnh mới, ham muốn tình dục bỗng nhiên trỗi dậy mạnh mẽ được gọi là hồi xuân. Văn học và y học từng nhắc đến câu chuyện hồi xuân của nhiều phụ nữ tuổi mãn kinh. Họ mê muội lao vào những cuộc tình không xứng đáng, đánh mất khả năng phán xét và sự kiêu hãnh, làm dáng một cách lố lăng và có những hành vi táo bạo không kém gì tuổi vị thành niên. Dĩ nhiên là trong những trường hợp đó, nhiều cuộc “chia tay hoàng hôn” đã xảy ra. BS Đào Xuân Dũng, Sức Khoẻ & Đời Sống

quan niệm tình dục của phương tây